Xem thêm

Toyota Corolla: Quãng đường huyền thoại của một dòng xe đáng tin cậy

CEO Long Timo
Hình ảnh minh họa: Toyota Corolla Giới thiệu Toyota Corolla (tiếng Nhật: トヨタ・カローラ, Toyota Karōra) là dòng xe hạng nhỏ (trước đây là dòng xe hạng siêu nhỏ) được sản xuất và tiếp thị trên...

Toyota Corolla Hình ảnh minh họa: Toyota Corolla

Giới thiệu

Toyota Corolla (tiếng Nhật: トヨタ・カローラ, Toyota Karōra) là dòng xe hạng nhỏ (trước đây là dòng xe hạng siêu nhỏ) được sản xuất và tiếp thị trên toàn cầu bởi hãng sản xuất ô tô nhật bản Toyota Motor Corporation. Được giới thiệu lần đầu vào năm 1966, Corolla đã trở thành mẫu xe bán chạy nhất trên toàn cầu vào năm 1974 và đã là một trong những mẫu xe bán chạy nhất trên thế giới từ đó. Vào năm 1997, Corolla trở thành tên mẫu xe bán chạy nhất trên thế giới, vượt qua Volkswagen Beetle. Toyota đã đạt được một cột mốc quan trọng khi bán được 50 triệu chiếc Corolla trong 12 thế hệ vào năm 2021.

Tên "Corolla" là một phần của truyền thống đặt tên của Toyota, dựa trên tên gọi Toyota Crown cho dòng sedan, trong đó "corolla" có nghĩa là "vương miện nhỏ". Corolla luôn được bán độc quyền tại Nhật Bản thông qua các cửa hàng Toyota Corolla Store, và được sản xuất tại Nhật Bản với một phiên bản song sinh, được gọi là Toyota Sprinter cho đến năm 2000. Từ năm 2006 đến 2018 tại Nhật Bản và hầu hết các nước trên thế giới, và từ năm 2018 đến 2020 tại Đài Loan, phiên bản hatchback đã được gọi là Toyota Auris.

Vị trí sản xuất

Corolla được sản xuất tại Nhật Bản tại nhà máy gốc Takaoka được xây dựng vào năm 1966. Các cơ sở sản xuất khác đã được xây dựng ở Brazil, Canada, Trung Quốc, Pakistan, Nam Phi, Đài Loan, Thái Lan, Việt Nam, Thổ Nhĩ Kỳ và Vương quốc Anh. Sản xuất hoặc lắp ráp trước đây đã được thực hiện ở Úc, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia, New Zealand, Philippines và Venezuela. Sản xuất tại Hoa Kỳ kết thúc vào tháng 3 năm 2010. Sản xuất được khôi phục vào năm sau đó sau khi nhà máy Toyota Motor Manufacturing Mississippi được mở vào tháng 11 năm 2011 ở Blue Springs, Mississippi.

Thế hệ đầu tiên (E10; 1966)

Thế hệ đầu tiên của Corolla được giới thiệu vào tháng 11 năm 1966 với động cơ đẩy mới 1100 cc. Phiên bản fastback của Corolla được giới thiệu vào năm 1968, và chỉ có sẵn tại một cửa hàng bán lẻ Toyota ở Nhật Bản được gọi là Toyota Auto Store.

Thế hệ thứ hai (E20; 1970)

Thế hệ thứ hai của Corolla được trang bị một thiết kế với các đường nét bo tròn hơn vào tháng 5 năm 1970. Có hai phiên bản tên gọi Corolla và Sprinter để phân biệt hai phiên bản này. Đồng thời, phiên bản Corolla Levin và Sprinter Trueno được giới thiệu như là phiên bản nâng cao với động cơ 2T DOHC vào tháng 3 năm 1972.

Thế hệ thứ ba (E30, E40, E50, E60; 1974)

Vào tháng 4 năm 1974, các mẫu Corolla và Sprinter được trang bị thiết kế bo tròn hơn, lớn hơn và nặng hơn. Thêm một phiên bản liftback hai cửa. Ở Úc, phiên bản KE3x/KE5x có sẵn dưới dạng sedan 4 cửa, sedan 2 cửa, coupe hardtop 2 cửa, van 2 cửa, station wagon 4 cửa và liftback 2 cửa.

Thế hệ thứ tư (E70; 1979)

Một lần tái tạo ngoại hình lớn vào tháng 3 năm 1979 đã mang đến một thiết kế cạnh vuông hơn. Phiên bản Corolla có một thiết kế đơn giản hơn so với phiên bản Sprinter. Mô hình A series engine mới được thêm vào dòng xe.

Thế hệ thứ năm (E80; 1983)

Vào tháng 5 năm 1983, Corolla được thiết kế với một đầu xe nghiêng và một thiết kế sắc nét hiện đại. Động cơ diesel 1.83cc và hệ thống phun nhiên liệu được giới thiệu vào năm 1985. Đa số các mẫu xe đã chuyển từ hệ thống truyền động cầu sau sang hệ thống truyền động cầu trước, ngoại trừ các mẫu AE85 và AE86, là những mẫu cuối cùng của Corolla được cung cấp với hệ thống truyền động cầu sau.

Thế hệ thứ sáu (E90; 1987)

Vào tháng 5 năm 1987, một thiết kế trơn tru hơn và khí động học hơn được sử dụng cho thế hệ thứ sáu. Hầu hết các mẫu xe đã chuyển sang hệ thống truyền động cầu trước, cùng với một số mẫu AWD All-Trac. Động cơ đa dạng với nhiều cấu hình khác nhau, từ 1.3-liter 2E đến 4A-GZE siêu nạp công suất 123 kW (165 mã lực). Mẫu xe Corolla thế hệ thứ sáu đã được xây và bán ở Mỹ dưới tên Toyota Sprinter và Geo Prizm.

Thế hệ thứ bảy (E100; 1991)

Vào tháng 6 năm 1991, Corolla đã trải qua sự đổi mới để trở nên lớn hơn, nặng hơn và có thiết kế khí động học tròn trịa, phù hợp với thập kỷ 1990. Điển hình là Corolla Levin vẫn còn được bán ở một số thị trường với tên gọi AE101.

Thế hệ thứ tám (E110; 1995)

Sản xuất của Corolla thế hệ thứ tám bắt đầu vào tháng 5 năm 1995. Thiết kế của chiếc xe được cải tiến nhưng không thay đổi nhiều so với thế hệ trước. Động cơ mới 1ZZ-FE ra mắt lần đầu tiên vào năm 1998.

Những thế hệ tiếp theo

Toyota Corolla đã trải qua nhiều thế hệ sau đó, từ E120, E130, E140/E150, cho đến E160, E170, E180, E210. Mỗi thế hệ mang đến những cải tiến về thiết kế, công nghệ và hiệu suất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.

Mẫu xe Toyota Corolla đã có một quãng đường huyền thoại và trở thành nhãn hiệu nổi tiếng trên toàn cầu. Với sự đáng tin cậy, tiết kiệm nhiên liệu và khả năng vận hành tốt, Corolla luôn là lựa chọn hàng đầu cho những người yêu xe trên khắp thế giới.

Ảnh: Toyota Corolla (giatoyota.vn)

1