Xem thêm

Giới Cấm Thủ: Sự Giam Cầm trong Lễ Nghi và Điều Lệ

CEO Long Timo
"Giới cấm thủ" (戒禁取) thường được coi là phiên dịch từ chữ "sīlavata-parāmāsa" (sīlabbata-parāmāsa, sīlavata-upādāna), có nghĩa là chấp thủ vào giới điều, lễ nghi. Đây là một trong mười sợi dây trói buộc con...

image

"Giới cấm thủ" (戒禁取) thường được coi là phiên dịch từ chữ "sīlavata-parāmāsa" (sīlabbata-parāmāsa, sīlavata-upādāna), có nghĩa là chấp thủ vào giới điều, lễ nghi. Đây là một trong mười sợi dây trói buộc con người trong vòng sinh tử luân hồi. "Sīla" dịch là giới (hay giới đức), "vata" dịch là điều lệ (hay nghi thức), "parāmāsa" dịch là chấp thủ. "Sīlavata-parāmāsa" có thể dịch là chấp thủ vào giới điều, lễ nghi, hình thức, v.v... Nhưng không hiểu chữ "cấm" là dịch từ đâu?

Giới Cấm Thủ: Giam Cầm Hay Minh Triết?

Chữ "giới cấm thủ" (sīlabbata-parāmāsa) thường bị hiểu lầm. Trái khỏi "giới cấm thủ" không phải là sự buông lơi, phóng túng, dễ duôi, không giữ gìn giới hạnh. Thực tế, nó có nghĩa là một thái độ minh triết, xem giới luật như là một phương tiện tốt, cần thiết để luyện tâm, nhưng không mù quáng, không quá lệ thuộc vào các hình thức giáo điều. Một người không còn giới cấm thủ là một người luôn giữ giới đức trong sạch, nhưng sống thảnh thơi trong giới luật đạo hạnh, không còn coi đó là một gánh nặng trên con đường hành trì của mình. Trong nhiều bài kinh, Đức Phật thường đề cập đến bốn yếu tố chính đưa đến quả Dự lưu: niềm tín thành bất động nơi Tam Bảo và có giới đức cao thượng, lúc nào cũng được các bậc chân nhân khen ngợi.

Giới Cấm Thủ: Giam Cầm Từ Gì?

"Giới cấm thủ" là việc giam cầm với một giới cấm không đưa đến giải thoát, tự trói buộc mình. Giới luật Phật chế là để giúp ta giải thoát ngay hiện tại. Tôn giả Udàyi một hôm thầm cảm ơn đức của Thế Tôn đã thốt ra những lời cảm động như sau: “Thế Tôn thật sự đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho ta! Thế Tôn đã thật sự mang lại lạc pháp cho ta!”, vì nhờ giới luật chế không ăn phi thời, mà tôn giả tránh được bao nhiêu nhục nhã ê chề những lúc đi khất thực vào buổi tối. Kinh nghiệm đau đớn nhất cho ngài, như ta được nghe ngài kể lại với Đức Phật, là một hôm vào lúc sẫm tối, ngài ôm bát đứng trước một nhà nọ. Một người đàn bà từ trong đi ra, bỗng ngất xỉu vì hoảng sợ, tưởng con quỷ nào hiện hình quấy phá. Khi hoàn hồn, bà mắng nhiếc: “Cha Tỳ kheo hãy chết đi! Mẹ Tỳ kheo hãy chết đi! Thật tốt hơn cho ngươi là lấy con dao bén mổ cái bụng chết đi còn hơn vì lỗ miệng đi khất thực buổi tối làm cho người ta sợ hết hồn!”. Chính vì những bất tiện ấy, Thế Tôn mới chế giới cho Tỳ kheo để được sống giải thoát an vui. Trái lại, giới cấm thủ là những kỷ luật phi lý không do một đấng giác ngộ lập ra, mà do những bậc thầy ngu si muốn lôi cuốn đệ tử bằng những điều luật khó theo, quái gở, lập dị, không vì mục đích giải thoát mà chỉ để lòe thiên hạ.

Giới Cấm Thủ Kiến: Giam Cầm Và Các Quan Niệm Sai Lầm

"Giới cấm thủ kiến" là sự bảo thủ cái thấy về giới phải giữ. Cố bảo thủ cái thấy phải giữ giới mà không biết là giới đó có đem lại lợi ích hay không. Thí dụ giữ giới không nói láo, nên lúc nào cũng nói thật, nhưng không biết lợi hại của lời nói thật và dối, nên khi kẻ cướp nó hỏi cái gì thì cũng nói thật để nó làm hại người khác. Vậy là giới cấm thủ là một sai lầm từ cái thấy giữ giới mà không nhiều ích hữu tình. Giới cấm thủ là đè nén và có cái thấy bị đè nén. Do vậy sự đè nén của giới cấm thủ đưa đến cái thấy bị đè nén do giữ giới. Cái đè nén này là sở tri chuớng có hại. Giới của Phật dạy là có động cơ của tình thương và vì sự lợi ích và hiểu biết của các chúng sanh. Vì vậy giới của Phật tử không do đè nén và đàn áp tao thành tri kiến ức chế. Có cái thấy ức chế khi giữ giới là giới cấm thủ kiến.

"Giới cấm thủ" là việc giam cầm, dựa vào những quy tắc hoặc truyền thống được cho là tốt. Tuy nhiên, việc này có thể dẫn đến sự ràng buộc và không thấu hiểu đúng về Đạo. Đó là sự giam cầm với các hình thức nghi lễ, giáo điều, và tín điều không phù hợp và không có lợi ích cho việc thực tập chuyển hóa tâm linh.

"Giới cấm thủ kiến": giam cầm trong những quan niệm sai lầm về giới. Đây có thể là việc tin rằng những hành động nhất định như không động tới một số vật phẩm, hay không nói dối, sẽ đem lại sự lợi ích, nhưng không nhận thức về hại lợi của những hành động này. Việc giữ giới cấm thủ có thể khiến người ta trở nên cố chấp và không linh hoạt.

1